Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

"NHƯ THẾ MỚI LÀ ĐÀN ÔNG"...

Bình sinh, cho đến bây giờ đã sang bên kia dốc cuộc đời, mình vẫn thường tự cho mình là kẻ không đến nỗi phải xấu hổ, với danh phận của một thằng đàn ông.

Trong mắt vợ, mình là một người đàn ông đích thực, đáng để chăm sóc yêu chiều. Trong mắt mình, mình là thằng đàn ông hơn rất nhiều thằng đàn ông khác.

Mặc kệ chuyện thiên hạ thờ ơ với thiên phận đàn ông, riêng mình, thầm tự đắc về cái chất đàn ông của mình.

Ấy thế mà bỗng có một ngày đẹp trời, trên một phiên chợ vùng cao, mình bị choáng váng vì tự thấy xấu hổ với mình, khi ngồi nghe trộm câu chuyện của hai người đàn ông xa lạ.



Bên một chiếc bàn gỗ mốc thếch, mình ngồi uống rượu với một người bạn.
Anh này thạo nhiều thứ tiếng dân tộc, vì đã một thời chuyên đi thu mua nấm rừng, thảo quả trong các bản làng, xuất sang Trung Quốc.

Bàn bên cạnh, có hai người đàn ông mặc quần áo chàm, vừa nốc từng bát rượu đầy, vừa chằm chằm nhìn vào mặt nhau.

Ngồi  ra xa một chút, là một người phụ nữ váy áo thêu xanh đỏ, khắp người đeo không biết bao nhiêu vòng bạc lủng lẳng.

Suốt đến gần nửa tiếng đồng hồ, chỉ thấy có một anh chàng nói, khi thì giận dữ khi thì nghẹn ngào, có lúc lại đắm chìm trong ưu tư như bị men rượu nhấn chìm.



Can rượu to trên bàn đã vơi quá nửa, bỗng hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, nức lên rưng rức.

Cái bàn ọp ẹp chao nghiêng làm hai bát rượu đổ tóe ra sàn.

Lẳng lặng nhìn hai gã đàn ông quá say, người đàn bà cúi xuống, nhặt những chiếc bát đặt lên bàn, rồi lẳng lặng mở nút cái can nhựa cao đến hai gang tay, nghiêng can rót rượu đầy tràn hai miệng bát.

Xong xuôi, lại trở về chỗ, lẳng lặng nhìn bâng quơ ra rặng núi giăng ngang trước mặt.

Thấy cảnh lạ lùng, mình thì thầm hỏi anh bạn xem chuyện gì đang xảy ra.

Thì ra hai gã đàn ông này chính là “tình địch” của nhau, theo cái cách định nghĩa ngu ngốc của người dưới xuôi chúng ta. Một anh là chồng, còn một anh là người yêu cũ của người đàn bà đang ngồi đây.



Nhìn kỹ ra thì cô vẫn còn khá trẻ, nhưng vẻ tiều tụy và cam chịu, làm cho ta nghĩ rằng đấy đã là một thiếu phụ nhan sắc đang tàn.

Chiều tối ngày hôm qua họ đã xuống đến chợ. Như nhiều đôi khác, hai vợ chồng này buộc ngựa vào một góc bên quán, ăn một bữa no nê rồi chia tay nhau.

Sáng hôm nay, họ lại tìm về quán cũ theo lệ thường, để rồi sẽ lại ăn một bữa, trước khi túc tắc dắt ngựa đi về.

Thế nhưng lần này, cô vợ không về quán một mình, mà dẫn theo anh người yêu cũ.

Thế là ba người ngồi cùng nhau. Hai người đàn ông và một người đàn bà.



Anh bạn mình ngồi xây mặt ra cửa, nhưng căng tai về phía bàn bên để nghe và cố hạ giọng dịch cho mình nghe, từng câu nhát gừng đứt quãng của người đàn ông, đang vừa nói vừa uống một cách đầy bức xúc.

Anh bạn mình còn phải tóm tắt cả câu chuyện đã xảy ra trước khi tôi hỏi, thế nhưng vẫn theo kịp được khúc sau, vì anh kia cứ nói một câu lại uống một hớp, rồi lại gật gật cái đầu, như đang cố vắt ra các ý nghĩ lộn xộn, nằm đâu đó bên trong óc mình.

Mình vừa nín thở để nghe và cố sắp xếp các lời dịch của anh bạn. Cuối cùng, thì mình hiểu được đại khái câu chuyện giữa hai người đàn ông: Một người chỉ nói, vừa nói vừa nghẹn ngào, một người cúi gằm mặt xuống vừa nghe vừa cắn chặt hàm răng. Bỏ qua những câu vòng vo mà mình không nhớ, mà cũng không hiểu hết ý, thì tóm tắt lại là như sau:


- Thằng Xín Thau kia, mày uống hết cái bát ấy đi rồi nghe tao nói. Suốt đêm qua tao đau tức cái tim, đau quặn cái ruột. Tao đi theo vợ mày về đây tìm mày!.





- ............
- Cái ngày bố mày theo ông thầy cúng, đưa mày đến đón vợ mày về, tao buồn muốn chết. Tao đã bắn hết cả một túi thuốc, nhồi hết đạn chì thì nhồi sỏi sạn vào mà bắn. Đáy nòng vỡ ra, sẹo trên má tao vẫn còn đây này!.


- ............


- Sau khi cưới, vợ mày nó bảo rằng tao đừng buồn, mày thương vợ lắm. Tao tin nó quá, thế là tao vui!.


- ..............


- Phiên chợ trước, tao được tin nhắn là phiên này vợ chồng nhà mày sẽ đi. Tao đắp vội mấy khúc bờ ruộng cho xong, tao bỏ cái đám cưới trong bản để ra đây gặp vợ mày!.


- .............


- Mày phải biết. Khi đi ra chợ tao vui quá, bỏ không bắn hai con chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến cái lúc được gặp vợ mày. Thật đấy. Tao vẫn còn thương con vợ mày lắm mà!.


- .............




- Đến lúc tao tìm được con vợ mày, tao vui đến chảy cả nước mắt. Tao lại hát lại cái bài, mà ngày xưa lần đầu, tao hát vào bên tai con vợ mày, cái đêm đầu tiên tao gặp được nó!.


- ..............


- Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt, mà tao không còn nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản. Giàng ơi!. Ngày xưa cái mặt ấy tròn như trăng rằm, hai cái vú nó tròn to như hai quả dưa chín, cái tay nó đẹp như mình con trăn trên cây, tiếng nó cười hay như chim hót làm nắng cũng cười theo, cái váy nó thơm như hoa rừng làm bướm cũng bay theo!.


- ..............


- Giàng ơi!. Đêm qua tao chỉ thấy mặt nó cong méo như trăng hạ tuần, ngực nó nhăn như hai quả bí héo. Nó không cười, nó chỉ muốn khóc. Tao đau cái tim tao quá!. Giàng ơi!.


- ................


- Mày nói đi!. Là thằng đàn ông, mắt mày có nhìn thấy vợ mày nó khổ hay không? Là thằng đàn ông, mày có thấy vợ mày nó buồn hay không?.





- ...............


- Mày là thằng tốt số nhất đời!. Mày sinh vào lúc nào mà mày lấy được vợ mày?. Mày thật là có cái tội to!. Hôm nay tao định đánh mày, tao thương con vợ mày quá!.


- ................


- Lần này tao mang hai bao ngô giống. Tao không bán nữa. Mày mang về đi mà trồng. Phiên chợ sau tao gửi phân bón vào cho!.


- .................


- Đến kỳ ngô ra bắp tao bảo mày cách đặt bẫy. Tao có bài thuốc, bẫy sập là lợn rừng ngấm thuốc không chạy được đâu!. Tao sẽ cho mày!. Nếu nhím sập bẫy, mày bắt nguyên cả con mang ra chợ. Có người mua ngay. Ba cái dạ dày nhím sống, là đổi được một con lợn giống to!..


- ................


- Mày không được lười. Mày đói thì tao kệ mày, nhưng vợ mày thiếu thóc, thiếu ngô là tao đánh mày đấy!.


- ..............


- Thằng Xín Thau kia!. Mày có phải là thằng đàn ông hay không?..


- ..............




Nhìn hai gã đàn ông gục đầu vào nhau, rưng rức khóc trên hai bát rượu đã cạn khô, mình thấy thật là khó tả.

Nhìn sang người đàn bà lẳng lặng ngồi bên, tôi không đọc được những ý nghĩ gì đang ẩn hiện trong đầu cô ta.

Phải chăng là vừa hạnh phúc vừa tủi thân, phải chăng là vừa ái ngại vừa thương xót cho cả hai gã đàn ông của cô?...

Rất lâu về sau, một lần mình đem câu chuyện này kể cho vợ nghe.

Vợ mình thở dài, cầm cái điều khiển tắt phụt màn hình vô tuyến, đang lải nhải vô duyên và bâng quơ nói:

- Đàn ông như thế mới là đàn ông!..

(Sưu tầm Blog Đàm Hà Phú - Người lữ hành kỳ dị)

Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014

Nhà văn Trần Thùy Mai: trò chuyện đôi nét

Nhà văn Trần Thùy Mai được nhiều bạn đọc văn chương biết tới qua các tập truyện ngắn như Quỷ trong trăng, Thập tự hoa, Gió thiên đường…Những truyện ngắn mang đậm “chất Huế” - nơi chị đang sống.
Trần Thùy Mai hiện là biên tập viên của NXB Thuận Hóa. Đó là một công việc mà chị cảm thấy rất phù hợp, vì nó không lấy mất quá nhiều thời gian. Có lẽ nhờ thế người đàn bà sinh ra ở Hội An này có nhiều thời gian để viết được những tác phẩm mình tâm đắc.
Nhưng ít người biết, phía sau những trang viết giàu tính nữ, luôn ngợi ca cái đẹp kia là một người phụ nữ từng đổ vỡ trong hôn nhân. Nhân dịp nhà văn Trần Thùy Mai xuất bản tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo (NXB Văn nghệ), từ Hà Nội, tôi đã có cuộc trò chuyện với chị qua mạng Internet.
- Chào chị Trần Thùy Mai. Chị vẫn sống ở ngôi nhà nhỏ trong một con hẻm trên đường Điện Biên Phủ ở Huế chứ?
- Đúng vậy. Mình vẫn chưa chuyển đi đâu, kể từ năm 1985 đến giờ, khi sắp sinh cháu thứ hai. 
- Nếu phải nói một chút về ngôi nhà của mình, chị nói gì?
- Nó… gắn với nhiều sự kiện lắm. Chuyển về căn nhà này được một năm thì ba các cháu đi Liên Xô học. Hồi đó cuộc sống khó khăn lắm nên chỉ mong đi được để đổi đời chứ không ngờ rằng sự xa cách sẽ kéo dài lâu đến cả đời người  như thế.
Các con mình đã lớn lên ở đây, nên căn nhà lưu giữ những hình ảnh kỷ niệm, những ngày sinh nhật, những đêm Noel, đêm Trung thu khi các cháu còn nhỏ. Bây giờ một cháu đi dạy ở trường Đại học Nông Lâm TPHCM, một cháu đang học trên đại học ở Singapore, thỉnh thoảng dịp hè, dịp Tết các cháu lại về, đó là những ngày mình hạnh phúc nhất trong năm...

- Chị từng lập gia đình. Đó là năm chị bao nhiêu tuổi vậy?
- Mình lấy chồng năm 27 tuổi, hồi đó mình đang là giảng viên trẻ của trường Đại học Sư phạm Huế. Anh ấy là giảng viên ở cùng khoa Văn, là bí thư chi đoàn của mình. Hai vợ chồng công tác cùng ngành, ở cùng một cơ quan, có thể nói là rất thuận lợi.
- Và rồi sau đó…?
- Có lẽ là do duyên số. Mới đám hỏi xong thì anh ấy được cử đi học cao học ở Hà Nội hai năm. Sau khi cưới lại đi học ở Liên Xô, thành thử thời gian thực sống bên nhau chỉ có khoảng hơn một năm rưỡi. Chuyến đi Liên Xô lẽ ra là 4 năm, nhưng đã kéo dài thành 16 năm.
Thời gian trôi qua, thói quen sống của cả hai đều thay đổi. Hiện nay không còn sống chung, nhưng vẫn hợp tác với nhau trong việc chăm sóc con cái và khi ốm đau, hoạn nạn vẫn hỗ trợ giúp đỡ nhau.
- Tập truyện ngắn mới nhất của chị có tựa đề “Một mình ở Tokyo” do NXB Văn nghệ ấn hành. Thưa chị, truyện nào trong tập chị cảm thấy thích thú nhất?
-  Đây là tập truyện gồm 12 truyện ngắn mình đã viết suốt một năm qua. Truyện mình tâm đắc nhất có lẽ là truyện “Thần nữ đi chân không”, trong đó mình muốn viết về số phận những người hùng chân đất trong lịch sử... Ban đầu mình đã lấy tên đó để đặt làm tựa cho tập sách mới. Nhưng sau, các biên tập viên nhà xuất bản đã chọn lại tên để bạn đọc… dễ nhớ hơn.

- Khi đọc tập sách “Một mình ở Tokyo”, tôi thấy chị đã có nhiều thay đổi. Không gian của truyện đã không còn “rặt Huế” như nhiều tập truyện trước. Đề tài cũng thế. Đã có nhiều truyện được chị khai thác từ đề tài của lịch sử?
- Đúng vậy. Bạn rất tinh ý đấy. Nhưng thật ra, trong tập truyện này vẫn là hình ảnh Huế, có điều đó là Huế trong mối tương giao với những vùng văn hóa khác, như Nhật Bản chẳng hạn. Thời gian qua, mình có điều kiện để đi đến những vùng đất mới, tiếp xúc với những người bạn mới…
Còn về đề tài lịch sử? Lịch sử, đặc biệt là lịch sử các vương triều ở Huế, là đề tài mình mong muốn viết từ lâu rồi. Trong chính sử, các sử gia thường ghi rất sơ lược về nhân vật, thậm chí có những phần bị giấu nhẹm, nhưng qua những dòng chữ còn lại đó ta có thể thấy những số phận, những tình cảnh rất con người.
Mình muốn phục dựng lại những chỗ bị lướt nhòa đó bằng cách bổ sung những giai thoại trong dân gian, trí tưởng tượng và suy lý lịch sử. Mình cho rằng trong lịch sử luôn có những bài học lặp đi lặp lại, những câu chuyện nhân văn rất gần gũi với con người hiện tại.
- Vậy khi viết về đề tài này, với những truyện ngắn như “Hải đường tăng”, “Nơi có những cây tùng xanh biếc”,  chị có e ngại gì không?
- Không. Mình nghĩ đã xa rồi cái thời người viết dễ dàng bị quy chụp là xúc phạm thần tượng này, ám chỉ vụ việc kia ...
- Theo chị, có cách nào để nhuận bút trả cho các nhà văn khi in sách một cách thỏa đáng giúp họ yên tâm sáng tác?
-  Thực tình mà nói, nhuận bút đối với cuộc sống của người viết văn như mình rất quan trọng, nhưng mình chưa bao giờ muốn nói nhiều về đề tài này cả. Nếu phải nói, thì chỉ nói ngắn gọn thế này thôi: người viết hãy chọn nhà xuất bản đáng tin cậy để gửi tác phẩm, đó là cách tốt nhất để bảo vệ mình.
- Nhiều nhà văn đã lập blog để sáng tác và thử nghiệm một lối viết mới. Còn chị thì sao?
- Đó là một ý tưởng hay, nhưng quả thực hiện nay mình chưa dành được thời gian để nuôi blog. Hiện nay ý nghĩ chính của mình là tiểu thuyết và mình muốn tập trung thời gian cho nó nên mọi chuyện sẽ phải tính sau... Có lẽ mình là người “lạc hậu” chăng, vì mình rất khó để sáng tác trên mạng.

Bạn có tin không, 12 truyện ngắn trong tập sách “Một mình ở Tokyo” mình vẫn viết trên giấy - dù máy vi tính mình đã dùng từ lâu. Nhưng chỉ viết mail, viết báo, hay vài văn bản đơn giản thì mình mới viết bằng máy tính. Khi sáng tác, mình sợ những tiếng lách cách của bàn phím lấy đi sự tập trung của mình.
(sưu tầm)

Nhà văn Trần Thùy Mai: Lánh cuộc đua hàng "hot"

Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như  bờ sông Hương ở Huế vậy…”.


“Trăng nơi đáy giếng” tập truyện ngắn được nhiều người ưa thích của Trần Thùy Mai

Viết văn để được là chính mình

Nhớ về Trần Thùy Mai, bên cạnh một giọng nói rất nhẹ bên li cà phê Bờ Hồ tôi còn nhớ tới những trang viết của chị, nhớ những tập truyện ngắn đã đọc như “Thương nhớ Hoàng Lan”, “Thập tự hoa”, “Trăng nơi đáy giếng”, “Một mình ở Tokyo”, “Onkel yêu dấu”…
  
Sinh năm 1954, Trần Thùy Mai bắt đầu viết văn từ hồi sinh viên, khi mới 19 tuổi với truyện ngắn đầu tiên “Ổ bánh mì”. Đến  giờ, Trần Thùy Mai đã có hơn 30 năm trong nghề cầm bút. Với chị, văn chương là một công việc nghiêm túc, vất vả thậm chí cực nhọc nhưng không mệt mỏi, vì đó là niềm yêu thích của chị. Văn chương đã cho chị được là chính mình, được có thêm nhiều bạn bè, nhất là những bạn gái, họ đến và kể cho chị nghe những tâm tình của mình.

Đọc sách của chị, dễ nhận ra một Trần Thùy Mai nhẹ nhàng, sâu sắc dù chị có viết về cái xấu, sự đổ vỡ hay cái sân si của đời người. Nhưng với các tập truyện gần đây, bối cảnh của nhiều truyện đã được mở rộng ra ngoài Huế - mảnh đất gắn bó của chị. Nói cách khác, nó không còn đậm đặc chất Huế như trong các tập truyện trước. Thật ra, trong tập truyện này, vẫn là hình ảnh Huế nhưng là Huế trong mối tương giao với những vùng văn hóa khác. “Trong  thời gian qua, nhờ những truyện ngắn được dịch ở nước ngoài tôi đã có được những chuyến đi, có thêm cảm hứng mới, thấy được những góc rộng hơn của cuộc sống, từ đó khung cảnh trong trang viết cũng được đổi khác, nhà văn Trần Thùy Mai tâm sự.

Cái lợi của sự… độc thân

Vẫn thường xuyên lên mạng đọc tin tức, gửi email chia sẻ những câu chuyện, hình ảnh mà chị thấy thú vị, nhưng khi viết văn, Trần Thùy Mai vẫn “nói không” với máy tính. Chị giữ nguyên một thói quen xưa cũ, là vẫn viết văn với cây bút và trang giấy trắng. Dường như chị sợ những con chữ quá đỗi khô cứng mà máy tính đã định dạng làm ảnh hưởng tới tư duy, tới dòng cảm xúc miên man mà chỉ có ngòi bút và trang giấy mới níu giữ lại được…

Tôi còn nhớ trước đây, có lần chị tâm sự: “Sống độc thân có cái lợi là không ai kiểm duyệt những chuyện tình yêu mà mình viết ra”. Tôi hiểu đó là một cách nói khi gắn cuộc sống với văn chương. Nhưng cũng có một cách nói khác. Như đoán được ý tôi, Trần Thùy Mai lại cười, khuôn mặt tròn, đôi mắt tròn: “Thực lòng mình nghĩ phụ nữ viết văn nên sống độc thân, vì những lúc đang viết, chăm chăm chúi chúi, cái mặt thì khó đăm đăm, việc dọn dẹp nấu nướng nhiều khi cũng bỏ mặc chẳng quan tâm. Có người đàn ông nào thích thú sống với một người như vậy không? Hơn nữa mình lại có cái tính viển vông, đối tượng gần gũi dễ kết hợp thì mình không thích, lại thường thích những nơi trớ trêu cách biệt, nên dù có những lúc thoáng nghĩ đến chuyện làm lại cũng không đâu đến đâu. Nghĩ lại như vậy cũng có cái may, vì càng bớt ràng buộc, thì thâm tâm càng nhẹ nhàng, mình tự biết với tính cách của mình thì mọi chuyện tình cảm rồi cũng chỉ đi tới chỗ thêm một nguồn cảm hứng để viết mà thôi”. 

Rồi chị nói mà như thì thầm: “Từ năm 1985, khi ấy mình sắp sinh cháu thứ hai. Về căn nhà này được một năm thì ba các cháu đi Liên Xô học. Hồi ấy cuộc sống khó khăn lắm nên chỉ mong đi được để đổi đời chứ không ngờ rằng sự xa cách sẽ kéo dài lâu đến cả đời người  như thế”.

Không vội chạy theo dòng

Thời gian gần đây chị ít khi ở Huế, cũng ít thấy truyện ngắn của chị trên các báo, sách mới cũng không ra. Hỏi, mới hay chị bận làm… bà ngoại. Con gái ở Sài Gòn sinh nở, “bà ngoại” liền bỏ hết mọi thứ, bỏ lại ngôi nhà trên đường Điện Biên Phủ ở Huế để vào trông cháu. 

Nhưng chị nói, không bao giờ lấy cớ để từ bỏ văn chương. Cũng có người thắc mắc, vì sao Trần Thùy Mai là một cái tên được độc giả chờ đợi, nhưng sách của chị không thấy xuất hiện trong danh mục những cuốn sách bán chạy trên thị trường? Trần Thùy Mai bảo, văn học khác với thể thao, nó không phải một cuộc cạnh tranh hướng ngoại mà là sự soi chiếu vào nội tâm. Thời đại này cuộc sống đã hóa ra một cuộc đua dữ dội quá nên ngay trong văn chương người ta cũng nói đến “hàng hot”. Trong những làn sóng tung lên rồi hạ xuống, tôn vinh rồi lãng quên, người cầm bút cũng có thể bị cuốn vào vòng xoáy. Trong vườn văn, Trần Thùy Mai “dọn khu vườn nhỏ của riêng mình, để chờ những người tri âm đến, không muốn vội vã chạy theo dòng”. 
(sưu tầm)

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Phim : Indochine – Đông Dương(1992)

1.       Tóm tắt nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh Đông Dương, cụ thể là Việt Nam, những năm đầu thế kỉ XX khi còn là thuộc địa của Pháp, triều đình phong kiến vẫn tồn tại. 
Éliane Devries là một người phụ nữ Pháp sống ở Đông Dương nơi cha bà có một đồn điền cao su rộng lớn. Tuy được nhiều người theo đuổi trong đó có ông trùm mật vụ Guy Asselin, Éliane vẫn sống độc thân cùng người con nuôi Camille, một cô gái trẻ người Việt mồ côi. Cuộc đời của Éliane và Camille bị xáo trộn bởi sự xuất hiện của viên sĩ quan hải quân trẻ tuổi và nóng nảy Jean-Baptiste Le Guen. Lần lượt Éliane rồi Camille đem lòng yêu Jean-Baptiste nhưng quan hệ của họ nhanh chóng tan vỡ vì Jean-Baptiste bị điều ra vịnh Hạ Long đóng quân tại một hòn đảo hẻo lánh nơi người Pháp tiến hành mộ phu cho các đồn điền miền Nam. Cảm thấy không thể sống thiếu Jean-Baptiste, sau khi Camille làm đám cưới với Thành, một trí thức trẻ người Việt, rồi đề nghị anh cho cô ra miền Bắc tìm người yêu. Trên đường tới Hạ Long, cô gặp Sao đang cùng chồng trốn khỏi trạm khai thác đá để tìm công việc mới ở miền Nam. Tại hòn đảo nơi Jean-Baptiste đóng quân, Sao cùng chồng và hai con bị phát hiện và giết hại. Chứng kiến xác của gia đình Sao, Camille bị sốc và dùng súng giết viên sĩ quan Pháp quản lý việc mộ phu. Cô cùng Jean-Baptiste phải chạy trốn và được những người Cộng sản trong đó có Thành che giấu. Cải trang thành diễn viên tuồng trong đoàn biểu diễn lưu động của những người Cộng sản, Camille và Jean-Baptiste dần tiến về phía Bắc tới biên giới Trung Quốc, Camille sinh cho Jean-Baptiste đứa con trai đầu lòng ngay sau một buổi diễn. Tới biên giới giáp tỉnh Vân Nam, Jean-Baptiste bị lính Pháp phát hiện và bắt giữ khi đang làm lễ Báp têm cho con trai, Camille không lâu sau cũng bị mật vụ Pháp bắt.
Con trai của Camille và Jean-Baptiste sau đó được Éliane chăm sóc. Trước khi bị điều về Pháp, Jean-Baptiste tới thăm con trai và chết ngay trên giường bên cạnh con với một viên đạn trên đầu. Vài năm sau Camille được thả trong dịp ân xá của Mặt trận bình dân Pháp nhưng cô quyết định đi theo con đường cách mạng thay vì trở về sống cùng Éliane. Sau khi Pháp thất bại ở Đông Dương, Éliane quay về Pháp cùng con trai của Camille, nhân Hội nghị Genève năm 1954 bà đưa anh tới gặp mẹ - nay là thành viên phái đoàn Việt Nam - tại Genève.

2.       Diễn viên
-       Catherine Deneuve: Éliane Devries, chủ đồn điền cao su
-       Vincent Perez: Jean-Baptiste Le Guen, sĩ quan hải quân Pháp
-       Phạm Linh Đan: Camille, công chúa Vệt nam mồ côi, con nuôi của Eliane
-       Jean Yanne: Guy Asselin, sếp cảnh sát thực dân Pháp
-       Carlo Brandt: Castellani, thanh tra cảnh sát thực dân Pháp
-       Eric Nguyen: Thành, sinh viên Việt nam yêu nước từ Pháp về, chồng Camille
-       Trịnh Thịnh : Minh, người của Guy Aselin, cộng tác với Castellani
-       Như Quỳnh: Sao
-       Nguyen Tran Quang Johnny: Étienne (bé)
-       Jean-Baptiste Huynh: Étienne (lớn) con trai của Jean- Baptiste và Camille
-       Ngô Quang Hải:
-       Hubert Saint-Macary: Raymond
-       Henri Marteau: Émile Devries, cha của Éliane
-       Gérard Lartigau: đô đốc Hải quân
-       Andrzej Seweryn: Hebrard, sĩ quan tuyển mộ phu, bị Camille bắn chết
-       Mai Châu (diễn viên): Sen, người giúp việc của Eliane

3.       E-kíp sản xuất phim
-       Đạo diễn: Régis Wargnier
-       Sản xuất: Eric Heumann, Jean Labadie
-       Tác giả: Erik Orsenna, Louis Gardel, Catherine Cohen, Régis Wargnier
-       Diễn viên: Catherine Deneuve, Phạm Linh Đan, Vincent Perez
-       Âm nhạc: Patrick Doyle
-       Quay phim: François Catonné
-       Dựng phim: Agnès Schwab, Geneviève Winding
-       Phát hành: Bac Films

4.       Tư tưởng chủ đạo

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Đạo diễn Đặng Nhật Minh – đôi nét ngắn gọn


1.       Sơ lược tiểu sử
Đặng Nhật Minh sinh ngày 10 tháng 05 năm 1938 tại Huế, cha ông là Giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ.
Đặng Nhật Minh đến với điện ảnh từ vai trò biên dịch cho các phim nói tiếng Nga, phiên dịch cho các lớp đào tạo điện ảnh của Nga dành cho người Việt
2.       Danh sách các phim nổi bật
-          Chị Nhung
-          Bao giờ cho đến tháng Mười
-          Cô gái trên sông
-          Thương nhớ đồng quê
-          Thị xã trong tầm tay
-          Mùa ổi
-          Đừng đốt
3.       Tóm tắt nội dung các phim do Đặng Nhật Minh dạo diễn
3.1. Thị xã trong tầm tay
-          Thể loại: tâm lý
-          Nội dung: phim lấy bối cảnh tại thị xã Lạng Sơn ngay sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung. Nhà báo Vũ từ Hà Nội lên Lạng Sơn làm phóng sự về tình hình thị xã sau chiến tranh, sau khi quân Trung Quốc tàn phá và rút về bên kia biên giới. Hồi ức về mối tình đầu với cô giáo Thanh, người Lạng Sơn, cô bạn gái từ thủa sinh viên. Giữa khung cảnh thị xã đổ nát, hoang tàn, thân phận con người, sự tàn khốc và vô nghĩa của chiến tranh.
-          Định dạng: Phim đen trắng
-          Kịch bản: Đặng Nhật Minh
-          Đạo diễn: Đặng Nhật Minh
-          Âm nhạc: Trong phim có sự phụ hòa âm và sử dụng các tác phẩm của Nguyễn Huy Căn, Cát Vận, Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường
-          Ngôn ngữ: tiếng Việt
-          Quay phim: Nguyễn Hữu Tuấn
-          Biên tập: Văn Linh
-          Diễn viên: Quế Hằng, Tất Bình, Văn Hòa, Quốc Trọng, Hoàng Yến, Đặng Nhật Minh, Hoài Linh,…
-          Comment thêm của blog: nhìn nhận bộ phim như một tác phẩm điện ảnh, làm trong suốt các yếu tố về chính trị, xã hội, quan điểm; tập trung vào cảm nhận và khai thác phim ở góc độ nghệ thuật làm phim, ngôn ngữ điện ảnh; không thiên về các yếu tố nội dung, tư tưởng.
3.2. Bao giờ cho đến tháng Mười
-          Thể loại: tâm lý
-          Nội dung: Trở về nhà sau chuyến đi thăm chồng ở biên giới Tây Nam, Duyên mang trong mình nỗi đau khôn tả: biết tin chồng chị đã hi sinh. Trên thuyền trở về, chị đã bị ngã xuống sông 
và được thầy giáo Khang cứu sống. Duyên giấu chuyện chồng hi sinh với mọi người trong gia đình đặc biệt là đối với người cha già đang có bệnh nặng. Để an ủi cha, Duyên nhờ Khang viết hộ những bức thư hỏi thăm gia đình như khi chồng chị còn sống. Những bức thư này đã mang lại niềm vui cho gia đình, nhưng nỗi đau thì một mình cô phải chịu đựng, nước mắt nuốt vào trong. Thế rồi, có nhiều tiếng đồn dị nghị rằng Duyên và thầy giáo Khang hai người có tư tình. Đến khi cảm thấy mình yếu, không còn sống được bao lâu, người cha chồng bảo Duyên gọi điện cho con trai về để gặp lần cuối. Đến lúc này, tin chồng mất đã không giấu được nữa...
-          Định dạng: Phim đen trắng
-          Kịch bản: Đặng Nhật Minh
-          Đạo diễn: Đặng Nhật Minh
-          Âm nhạc: Phú Quang
-          Ngôn ngữ: tiếng Việt
-          Quay phim: Nguyễn Lân, Phạm Tiến Đạt, Nguyễn Đăng Bảy
-          Diễn viên: Lê vân, Nguyễn Hữu Mười, Đặng Lưu Việt Bảo, Lại Phú Cường
-          Comment thêm của blog: nhìn nhận bộ phim như một tác phẩm điện ảnh, làm trong suốt các yếu tố về chính trị, xã hội, quan điểm; tập trung vào cảm nhận và khai thác phim ở góc độ nghệ thuật làm phim, ngôn ngữ điện ảnh; không thiên về các yếu tố nội dung, tư tưởng.

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Nữ biên kịch Châu Thổ: Tôi đau đáu với số phận phụ nữ Việt Nam

Mãi đến khi được trao giải Cánh diều vàng 2009 cho kịch bản phim truyện nhựa hay nhất, công chúng mới biết chị chính là người đã chuyển thể thành công truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của nhà văn Trần Thùy Mai sang kịch bản điện ảnh. Bản chất công việc vốn âm thầm, bản thân chị cũng ít muốn "lộ diện" nên không mấy ai biết, Châu Thổ hiện nay là một trong số rất ít nữ biên kịch hàng đầu của điện ảnh VN.

Khởi đầu từ kịch bản tài liệu Di chúc những oan hồn (đạo diễn Văn Lê – Bông sen vàng LHPVN 2001), Châu Thổ đã liên tiếp có những kịch bản được dàn dựng thành phim truyện nhựa như Người đàn bà không hóa đá (ĐD Đào Bá Sơn), Giá mua một thượng đế (ĐD Hồ Ngọc Xum), Trăng nơi đáy giếng (ĐD Nguyễn Vinh Sơn), cũng như hàng loạt kịch bản phim truyền hình đã được trình chiếu như: Họ từng chung kẻ thù (ĐD Lê Cung Bắc), Hoa hồng (ĐD Hồng Phúc Vinh), Sóng tình (ĐD Minh Cao), Ghen (ĐD Đặng Lưu Việt Bảo và Trương Dũng), Tình yêu pha lê (ĐD Xuân Cường), Lọ lem @ (ĐD Trần Ngọc Phong), Hồi xuân (ĐD Bùi Đình Thứ)... Hiện ba kịch bản mới của chị đang trên trường quay và sẽ được phát sóng đồng loạt trong năm nay là Cha dượng (30 tập – ĐD Phạm Thanh Phong), Gió nghịch mùa (40 tập - ĐD Đặng Lưu Việt Bảo) và Người đẹp Bình Dương (30 tập –ĐD Minh Cao).
Phóng viên: Điều gì thôi thúc chị chuyển truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng thành kịch bản phim?
- Đó là khi đạo diễn Lê Đức Tiến ở Hà Nội vào nhận chức giám đốc hãng phim Giải Phóng năm 2003, cầm theo tờ báo in truyện Trăng nơi đáy giếng. Anh nói đó là "của hồi môn" của anh, anh rất thích truyện ngắn này và muốn làm phim. Anh đã đặt hàng hai người viết rồi nhưng chưa ưng ý, đem vào Nam định nhờ một nhà biên kịch gốc người Huế viết lại. Thế nhưng sau đó, anh giao cho tôi. Nửa tháng sau, tôi giao kịch bản cho anh và anh gửi ngay cho hội đồng duyệt. Hôm lên nhận giải Cánh diều vàng, tôi định nói vài lời cảm ơn anh Lê Đức Tiến nhưng tiếc là không còn giờ.
* Tên khai sinh của chị là Bích Thủy, một cái tên đẹp, từng được biết đến khi là tác giả của kịch bản sân khấu Người tự nhận chức, đoạt giải nhì cuộc thi sáng tác kịch bản của Hội Sân khấu TP.HCM năm 1982. Vì sao khi chuyển sang điện ảnh, chị lại lấy bút danh Châu Thổ?
- Châu là tên con trai tôi, đồng thời cũng là chữ đầu của từ châu thổ, ý chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long, quê mẹ. Mẹ tôi người Bến Tre, đi hoạt động cách mạng rồi theo chồng về quê ở Đồng Hới (Quảng Bình) và sinh ra tôi ở cửa sông Nhật Lệ. Sống ở miền Trung, mẹ luôn đau đáu nhớ về vùng đất phù sa quê ngoại. Mỗi lần vất vả tìm cho được một trái dừa khô để lấy cơm thắng dầu chải tóc cho tôi, mẹ lại kể về vườn dừa bạt ngàn, về ao đìa đầy cá, về đồng lúa mênh mông của nhà ngoại. Vậy nên ngay từ tuổi nhỏ, tôi đã yêu vùng đất trù phú quê mẹ và luôn mơ về nó. Sau ngày giải phóng, về Bến Tre làm ở báo Đồng Khởi, tôi đã nhiều lần được ngồi trên xuồng ngắm cảnh vật cây trái xanh tươi hai bên bờ, mới hiểu được nỗi nhớ của mẹ ngày trước. Châu Thổ chính là tình yêu dành cho quê ngoại của tôi.
* Tốt nghiệp Đại học báo chí trường Tuyên huấn trung ương khóa đầu tiên sau năm 1975 và trở thành cây bút sắc sảo của báo Đồng Khởi, vì sao chị lại rẽ ngang sang nghệ thuật?
- Ra trường, tôi về quê làm báo với khát vọng được đóng góp cho đất nước. Nhưng hầu hết những bài viết phê bình tiêu cực của tôi đều bị cắt gọt, thậm chí còn bị phê bình ngược. Đang chán nản, tình cờ tôi đọc báo thấy có cuộc thi sáng tác kịch bản sân khấu đang phát động, liền viết kịch bản Người tự nhận chức, đề cập đến vấn đề đang nóng bỏng ở một huyện thuộc tỉnh nhà. Ở đó, nhiều người trẻ muốn cống hiến nhưng không được chấp nhận vì lý lịch và có một người vì quá bức xúc đã tự nguyện đứng ra làm chủ tịch để được đóng góp. Kịch bản gửi đi, bất ngờ đoạt giải và mau chóng được dàn dựng. Người ta long trọng tổ chức một buổi diễn ở nhà hát để báo cáo kết quả cuộc thi với nhiều khách mời là những người đang giữ trọng trách. Chẳng ngờ, vở kịch bị phê là xúi bọn trẻ nổi loạn và bị cấm diễn.
NBK Châu Thổ cùng con trai
Thêm một lần bị hụt hẫng, đang chưa biết sẽ phải làm gì thì Xí nghiệp phim tổng hợp (tiền thân của Hãng phim Giải Phóng) tuyển người đi học nghề ở Hà Nội, tôi đậu thủ khoa và theo học Đại học Sân khấu Điện ảnh VN, ngành biên kịch. Học xong về hãng, gặp lúc còn nhiều "cây đa cây đề”, đề cương mình đưa lên không được duyệt, chán nản, nghĩ mình chưa đủ duyên với nghề nên tạm thời trở lại nghề báo, lần này là báo Điện ảnh Kịch trường.
Mặc dù công việc làm báo vẫn đang "vượng" song sau 5 năm, niềm đam mê viết kịch bản phim lại thôi thúc tôi quay về hãng Giải Phóng để viết, đúng vào lúc người ở đây kéo nhau bỏ qua truyền hình. May mắn là ngay vào thời điểm này, Hội Điện ảnh mời ông Bernard, một chuyên gia điện ảnh người Pháp đến hướng dẫn thêm cách viết kịch bản. Có vốn sống, có kỹ thuật, tôi lao vào viết như chưa từng được viết.
* Nghe nói chị đã có một "bộ ba" kịch bản về "người đàn bà”, trong đó Người đàn bà hóa đá đã dựng thành phim, còn hai người đàn bà kia như thế nào?
- Tôi thấy trong một thế kỷ qua, người phụ nữ VN phải trải qua quá nhiều biến động. Vì vậy, là một nữ biên kịch, tôi không thể không đau đáu về số phận của phụ nữ nước mình. Tôi muốn viết thật nhiều và tạm thời dừng lại ở ba kịch bản: Người đàn bà hóa đá, Người đàn bà không chung thủy và Người đàn bà hư hỏng. Người đàn bà hóa đá là người đàn bà sau chiến tranh mỏi mòn chờ đợi chồng nhưng không thấy về, đến khi sắp chạm đám cưới với người đàn ông khác thì nghe đài thông báo tìm gia đình cho một anh thương binh bị mất trí nhớ - chính là chồng mình. Chị nhất quyết hủy hôn với người yêu mới để quay về sống với người chồng mất trí. Người đàn bà trong Người đàn bà không chung thủy có chồng kinh doanh bị vướng vòng lao lý, phải chạy khắp cửa, kể cả đi đút lót để cứu chồng. Còn Người đàn bà hư hỏng có chồng là người thành đạt nhưng bị stress dẫn đến bất lực, về nhà hành hạ vợ. Hai kịch bản sau viết đã nhiều năm nhưng chưa được duyệt.
* Dư luận cho rằng, Châu Thổ thường không mấy hài lòng với những bộ phim được dàn dựng từ kịch bản của mình.?
- Tôi không phủ nhận phim là của đạo diễn, nhưng tôi đòi hỏi người dàn dựng và tác giả kịch bản phải tôn trọng nhau và phải có trách nhiệm với đứa con chung, hai cái đầu vẫn hơn một cái đầu. Khi viết, tôi luôn có khát vọng gửi thông điệp đến người xem trong từng câu chữ, nếu đạo diễn biết cùng biên kịch bàn bạc thì sự thành công sẽ cao hơn.
* Theo chị, nghề biên kịch có hợp với phụ nữ và vì sao các nữ biên kịch ngày càng hiếm hoi? Chị có lời khuyên nào cho những bạn gái trẻ muốn theo nghề?
- Nghề này đòi hỏi phải đam mê, luôn sống với các nhân vật, đau đáu với số phận của họ, phải có thời gian để nghĩ ra tấm ra món, chứ khơi khơi khó thể có những nhân vật có màu sắc. Tôi gần như ăn, ngủ, kể cả lúc lái xe trên đường cũng sống với các nhân vật. Tôi có điều kiện để làm như vậy vì không có chồng. Cậu con trai duy nhất cũng đã 20 tuổi và đang học ở nước ngoài. Chuyện nhà cửa, cơm nước đã có mẹ giúp, tôi gần như không vướng bận gì cả. Phụ nữ nào nhiều lo toan cho gia đình sẽ khó theo nghề này lâu bền. Nghề biên kịch cần vốn sống và kỹ năng viết. Kỹ thuật có thể nắm rất nhanh nhưng vốn sống thì phải trải nghiệm mới có thể trao lại cho nhân vật.
* Với chức vụ phó giám đốc hãng Senafilm chuyên sản xuất kịch bản, nhưng thời gian gần đây, người ta thấy chị trong vai trò giám đốc điều hành đoàn phim, vì sao chị phải đích thân ra hiện trường mà không tìm người trợ lý?
- Khi thành lập Senafilm, chúng tôi định chỉ sản xuất kịch bản cung cấp cho các nơi cần, nhưng hãng mới ra lò đã có người đặt hàng, nên chúng tôi nhận luôn việc sản xuất phim. Làm phim bây giờ có tính cạnh tranh cao, nên nếu không có chuyên môn, không hiểu việc, không tiết kiệm chi phí sẽ lỗ sặc gạch. Phần hậu kỳ đã sắp xếp, nhưng phần tiền kỳ mình phải tự quản lý. Ngoài ra, phim phải có thông điệp gửi đến người xem và phải hấp dẫn mới lấy được quảng cáo. Những yếu tố này buộc tôi phải trực tiếp điều hành.
* Có khi nào chị cảm thấy buồn tủi khi phải chịu cảnh đơn thân nuôi con?
- Tôi cũng từng có mơ ước nhỏ nhoi là lấy được người chồng tử tế, có con cái đàng hoàng, nhưng số phận đã không cho, đến bây giờ tôi vẫn chưa có một gia đình thực sự. Mình muốn điều đó, nhăm nhăm tìm cái đó nhưng không có được thì hãy hài lòng với những gì mình có, đó là có một đứa con để chia sẻ. Trước đây, có một đứa con không cha, tôi đã rất khổ sở. Để dạy được con, mình phải hoàn thiện mình. Tôi vẫn dạy con rằng, trái tim càng lớn, hạnh phúc sẽ càng nhiều. Nghiệm lại, tôi thấy số phận cho mình nếm trải khổ đau thì mới có vốn sống để viết. Tôi gặm nhắm nỗi đau, tìm vị ngọt trong cay đắng và chưa bao giờ tuyệt vọng. Có lúc tôi như bị rơi tự do. Nhưng nghĩ lại cuộc đời cũng rất công bằng. Tôi cảm thấy hạnh phúc và bằng lòng với cuộc sống hiện tại.

 (Sưu tầm)

Trăng nơi đáy giếng: Nỗ lực gỡ bỏ thói quen của đạo diễn Vinh Sơn

Điện ảnh nước nhà kể từ những năm sáu mươi đến nay cho thấy có hai cuộc bứt phá rõ rệt. Một là của Đặng Nhật Minh, những năm tám mươi. Với ba bộ phim Thị xã trong tầm tayCô gái trên sông và Bao giờ cho đến tháng mười anh đã gây được chú ý của dư luận bằng việc phá bỏ thói quen xây dựng câu chuyện và nhân vật theo lối cũ sáo mòn và khiên cưỡng, theo kiểu ta thắng địch thua, ta tốt địch xấu với những cái kết hoặc hoan hỉ hoặc đau thương căm thù uất hận, để vươn tới một tầm nhân văn cao hơn và một tư tưởng mới mẻ, thoáng đạt hơn. Anh dám chạm đến những mẫu nhân vật mà trước đây không sai dám nói cái xấu, dù là một cái tật nhỏ và đặt những vấn đề nóng bỏng buộc người ta phải nhìn nhận lại mình và xã hội mình đang sống. Cho dù không có một thủ pháp mới lạ nào, ngôn ngữ khá đơn giản, có phần sơ lược thì phim của Đặng Nhật Minh vẫn được khán giả chào đón nồng nhiệt.
            Cuộc bứt phá thứ hai vào thập niên đầu tiên của thế kỉ này, đó là những nỗ lực đổi mới ngôn ngữ của Nguyễn Thanh Vân với Đời Cát, Người đàn bà mộng du; Lưu Trọng Ninh với Bến Không Chồng; Phạm Nhuệ Giang vớiThung lũng hoang vắng; Lê Hoàng với Chiếc chìa khóa vàng; Đỗ Minh Tuấn với Vua bãi rác; Đặng Nhật Minh với Thương nhớ đồng quêMùa ổi; Việt Linh với Mê thảo.v.v đặc biệt gây ấn tượng là Nguyễn Võ Nghiêm Minh với mùa len trâu và Thạc Chuyên với Sống trong sợ hãi. Và giờ đây là Vinh Sơn vớiTrăng nơi đáy giếng.
             Cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21 các nhà làm phim Việt Nam dường như đã ý thức được tầm quan trọng hàng đầu của ngôn ngữ, rằng điện ảnh muốn thực là điện ảnh, chứ không phải là cái đuôi của văn học, thì nó phải được kể bằng ngôn ngữ của chính nó, rằng việc kể chuyện thuần túy nên nhường đất cho ti vi, nhiệm vụ cốt yếu của nó là trau chuốt ngôn ngữ sao cho càng ngày càng đẹp, càng ngày càng mới mẻ. Đó là một hướng đi đúng cho dù nó có vẻ không thích hợp với gu thẩm mỹ của số đông.
http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/03/trang-noi-day-gieng1.jpg?w=500
            Tuy nhiên tôi vẫn thấy hầu hết những tác phẩm đã nêu, người thành công kẻ thất bại, và dù  ngôn ngữ có mới  lên thật, đẹp lên thật nhưng cách diễn đạt ngôn ngữ thì không có gì mới, vẫn theo theo thói quen cũ xưa nay ta và thế giới đã làm.
 Sở dĩ Trần Anh Hùng nổi lên như một đạo diễn sáng giá của thế giới là vì anh luôn luôn tìm tòi đổi mới cách thức diễn đạt ngôn ngữ, không chỉ anh làm mới so với người khác mà anh đã làm mới ngay cả chính anh. Trong ba phim tôi đã xem, hay nhất vẫn là Mùi đu đủ xanh, dở nhất là Mùa hè chiều thẳng đứng, điều đáng nói nhất, cũng là điều tôi quí trọng Trần Anh Hùng, là không phim nào anh lặp lại cách diễn đạt ngôn ngữ của phim nào.
            Sở dĩ phải dài dòng như vậy để nói rằng nỗ lực gỡ bỏ thói quen của Vinh Sơn trong phim Trăng nơi đáy giếng là rất đáng ghi nhận.  Hạnh trong phim Trăng nơi đáy giếng thuộc một mẫu đàn bà Huế coi việc phụng sự chồng là lẽ sống, là hạnh phúc của người vợ. Không may chị gặp phải người đàn ông ích kỉ, gia trưởng đó là Phương. Phương mặc nhiên coi tất cả những gì Hạnh làm cho anh là lẽ đương nhiên, là anh đáng được hưởng như thế. Chỉ vì cái chức hiệu trưởng, Phương đã lìa bỏ Hạnh nhẹ nhàng như không, chẳng hề có một chút  áy náy nào, để cho vợ mình rơi vào tuyệt vọng hoàn toàn, phải cưới chồng người âm, sống với người chồng người âm này trong niềm hạnh phúc đầy hoang tưởng. Xét riêng về chuyện phim, nếu vào tay tôi và có lẽ  nhiều người  khác nữa, tôi sẽ dần dần dựng một Phương đểu cáng, anh ta sẽ tạo nên màn kịch giả tạo để đẩy người vợ ra khỏi đời sống của mình. Làm như thế sẽ hấp dẫn người xem, tạo được nhiều xung đột và gây được những cú sốc vì bất ngờ,  đặc biệt phù hợp với gu thẩm mỹ đương thời.
http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/03/04.jpg?w=500&h=338
Vinh Sơn đã chọn lối đi khó hơn nhiều, một cách kể tuồng như không có một sự biến nào đáng kể, như cuộc sống vốn vậy và nó đã diễn ra vậy, không hề có một sự tạo dựng hay sắp đặt nào. Phương không sắp sẵn một âm mưu nào, chỉ đơn giản anh ta nghĩ hạnh phúc là những gì anh ta muốn và người vợ có nghĩa vụ phải tuân theo. Ngược lại Hạnh cũng tin rằng hy sinh cho những gì chồng muốn là hạnh phúc của người vợ. Bi kịch của chị bắt nguồn từ niềm tin đáng thương kia. Đây là điểm mới mẻ, có thể nói Phương và Hạnh là mẫu nhân vật chưa từng có ở phim ta, dù cuộc đời thì vô số.
 Phim vì thế đã rời bỏ dòng tự sự để đi đến một cấu trúc dựa theo dòng chảy cảm xúc, gần với dòng phim ấn tượng, với một tiết tấu chậm rãi, chậm đến nỗi không thể chậm hơn nữa.
Theo cách kể thông thường thì Vinh Sơn phải khai thác triệt để ba tuyến nhân vật Phương- Hạnh- cô vợ bé, Phương- Hạnh- bà mẹ chồng và Phương-Hạnh- nhà trường, đại diện là ông hiệu phó và cô chủ tịch công đoàn. Nếu như vậy anh sẽ có một câu chuyện đa tuyến tạo ra nhiều va đập, nhiều xung đột, cùng với một tiết tấu nhanh nhất định sẽ hấp dẫn, gây nhiều thích thú cho người xem. Nhưng nó không mới, không hề mới, giống như biết bao bộ phim ta đã xem.
Vinh Sơn  hầu như chỉ  tập trung chú ý đến vai Hạnh, ống kính theo chị cũng chiếm hầu hết thời lượng, anh chỉ dùng các nhân vật khác để khắc họa Hạnh, tạo ra dòng chảy cảm xúc ngày một xiết hơn, dùng các tuyến nhân vật như những cái móc để treo những ấn tượng, ngoài ra anh bỏ qua hết những gì mà luật kể dòng tự sự buộc phải tôn trọng.
 Làm như vậy, nếu không cao tay ấn thì Trăng nơi đáy giếng sẽ là phim nhạt vô cùng. Nhưng không, bộ phim nhỏ những giọt nước nhỏ nhẹ, vu vơ, đôi khi có cảm tưởng thừa thải, dần thấm đầy lên, đến nỗi làm cho ta nghẹt thở.
Đến đây mới nhận ra Trăng nơi đáy giếng kể về một người đàn bà đã tin tưởng thương yêu hết mình tất cả nhưng tất cả đều bỏ chị mà đi, đến con chó cũng không muốn sống với chị. Điều đó giải thích vì sao chị buộc phải sống với người âm. Chính điểm này làm cho tôi ngơ ngẩn suốt một ngày sau khi xem xong phim.
Nỗ lực phá bỏ thói quen của Vinh Sơn ở cái cách anh diễn đạt ngôn ngữ. Không phải lúc nào cũng thành công, nhưng cho thấy anh là một đạo diễn không chấp nhận cái cũ, kể cả cái cũ đã được thừa nhận.
 Ở cảnh cô Hạnh đạp xe đạp về quê trong nỗi buồn thăm thẳm, cô vừa đạp xe vừa khóc, thông thường người ta bắt đầu cú toàn cho thấy chị một mình lẻ loi trên đường vắng, sau đó là cú trung cho thấy gắng gỏi mệt mỏi đến với chồng, cuối cùng là cú cận cho thấy những giọt nước mắt của chị.
Làm như vậy không dở, nếu khéo sẽ hay nhưng không mới, dù thế nào cũng lộ sự cố tình. Vinh Sơn cho máy rê theo Hạnh ở cú trung, diễn đạt tự nhiên như người đứng vệ đường nhìn thấy vậy, không có gì quan trọng. Cảnh phim bỗng trở nên chân thực và cảm động .
Cũng vậy, cảnh nội đêm ở nhà, anh cho máy đi rất chậm từ Phương đang nằm nghĩ ngợi, đến cậu bé đang vẽ chơi, vào tận bếp, chỗ Hạnh đang làm thơ. Nhiều người sẽ bỏ qua cảnh này, nếu có nhắc tới cũng không để tốn quá 30 giây, Vinh Sơn đã dùng hai phút cho nó, chỉ mất có hai phút thôi mà một đời sống gia đình Huế hiện ra rõ ràng, chính xác hơn bao giờ hết. Thật tuyệt vời.
Còn khá nhiều những cảnh quay đáng khen như thế, ví như các cảnh cửa nhiều lần khép mở, cho thấy nỗi trăn trở của người đàn bà không biết nên khép kín đời mình hay nhào ra cuộc đời để mà sống; Ví như vẻ khệnh khạng, trễ nải của ông chồng trong khi làm tình đã bóc trần tính gia trưởng của anh ta đến tận đáy; Ví như Vinh Sơn đã biến ông chồng  từ chỗ được vợ yêu thương chiều chuộng thành người dưng chỉ mất không đầy một phút mà không cần bất kì một sự biến nào, vân vân…đạo diễn nước ta chỉ bỉu môi là tài chứ làm được như Vinh Sơn khó lắm.
Trăng nơi đáy giếng cũng còn có chỗ đáng bàn, có  chỗ phải nhăn mặt: Cảnh họp hội đồng giáo viên diễn đạt hơi ti vi, cái kết hơi thiên về giải thích, vài cú dựng vội làm hỏng cảm xúc, hát hỏng lắm quá, tỉa tót văn hóa Huế kĩ quá. Đặc biệt quay phim không được tốt, nhiều khuôn hình bố cục, ánh  sáng quê quê thế nào a. Với ngôi nhà làm theo ý mình, cái nhà Huế rất đẹp ấy, đáng lẽ phải có nhiều cảnh nội đẹp lịm người, ở đây ta thấy nhiều khuôn hình được làm như mấy ông ti vi quay vội, thật đáng tiếc.
Dù vậy, Trăng nơi đáy giếng là một phim đáng được đề cao vì những nỗ lực tuyệt vời của nó. Cá nhân tôi thì thấy rằng, cùng với Mùa len trâuTrăng nơi đáy giếng là hai phim mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất, xứng đáng ra nước ngoài tranh giải mà không hề e sợ, hay xấu hổ. Thành công của bộ phim trước hết là nhờ Vinh Sơn có được truyện ngắn quá hay của Trần Thùy Mai, có lẽ đó là một trong những truyện hay nhất của chị. Cũng phải kể đến Hồng Ánh, chị đã diễn một vai xuất thần, vượt lên tất cả những phim chị đã đóng, kể cả phim Đời Cát,  thật đáng khen .


(Trích blog của nhà văn Nguyễn Quang Lập)